Theo Viện trưởng Viện nghiên cứu cơ khí Nguyễn Chỉ Sáng, bên cạnh những thuận lợi về mặt mở rộng thị trường và tiếp cận chuyển giao công nghệ tiên tiến, việc gia nhập WTO cũng làm cho ngành cơ khí phải đương đầu với rất nhiều khó khăn như trợ giúp trực tiếp của Nhà nước về trợ giá, chỉ định thầu gần như bị xóa bỏ trong khi năng lực của các doanh nghiệp cơ khí mới ở điểm xuất phát, năng lực tư vấn thiết kế thấp, khả năng cạnh tranh kém.
Do vậy, với các dự án lớn đấu thầu quốc tế, doanh nghiệp cơ khí trong nước không có khả năng thắng thầu. Ngay cả các nhóm sản phẩm cơ khí trọng điểm của Việt Nam cũng không thể cạnh tranh với các sản phẩm cơ khí của Trung Quốc cả về chất lượng lẫn giá thành. Đặc biệt, các doanh nghiệp cơ khí chế tạo Việt Nam chỉ giành được trên 10% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài.
Để ngành cơ khí, nhất là cơ khí trọng điểm phát triển xứng đáng với tiềm năng vốn có, Bộ Công Thương cho biết Bộ sẽ kiến nghị Chính phủ các chính sách hỗ trợ cụ thể như Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên tín dụng đầu tư để các dự án cơ khí trọng điểm được vay 85% vốn của Ngân hàng đầu tư phát triển.
Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách kích cầu cho sản phẩm cơ khí trọng điểm bằng việc cho phép chỉ định thầu với các dự án loại này; cho phép các doanh nghiệp sử dụng sản phẩm cơ khí trong nước được vay vốn và hưởng mức thuế ưu đãi. Đặc biệt, các dự án sản xuất thiết bị nhà máy nhiệt điện công suất từ 300-600 MW, dự án đóng giàn khoan dầu trên biển ở độ sâu trên 60 m và các dự án đóng tàu chở dầu trọng tải lớn cần được hỗ trợ vay vốn từ quỹ khoa học công nghệ.
Sau 2 năm gia nhập WTO, ngành cơ khí Việt Nam đã đạt được những thành tựu ban đầu. Kim ngạch xuất khẩu cơ khí năm nay ước đạt 2,8 tỷ USD, tăng hơn 133% so với năm 2006. Việt Nam đã chế tạo được tàu chở hàng có trọng tải từ 6.500 đến 53.000 tấn, tàu chở dầu thô 13.500 tấn; các sản phẩm động cơ diesel công suất 80 mã lực. |